Nhiều khách hàng hiện nay đang quan tâm và muốn biết thực hư thế nào về Hợp đồng đặt cọc khi một giao dịch phát sinh tranh chấp. Vậy hợp đồng còn hiệu lực hay bị vô hiệu? Để biết rõ, Văn phòng công chứng Nguyễn Huệ xin chia sẻ những điều căn bản về luật và các quy định về Hợp đồng đặt cọc khi nào bị vô hiệu để quý khách có thể yên tâm khi giao dịch dân sự.
I. Hợp đồng đặt cọc theo quy định pháp luật
1. Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.
2. Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
II. Hợp đồng đặt cọc vô hiệu là gì?
Hợp đồng đặt cọc bị vô hiệu khi không thỏa mãn các điều kiện giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015.
Vô hiệu là trường hợp hợp đồng không có hiệu lực kể từ ngày ký kết. Theo khoản 1 Điều 407 Bộ luật Dân sự có quy định về hợp đồng vô hiệu, theo đó các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu.
Các trường hợp vô hiệu
Căn cứ các quy định của Bộ luật Dân sự có thể khái quát hợp đồng dân sự vô hiệu gồm các trường hợp sau đây:
- Hợp đồng vô hiệu khi vi phạm điều cấm của Luật, trái đạo đức xã hội;
- Hợp đồng vô hiệu do giả tạo;
- Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện;
- Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn;
- Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;
- Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình;
- Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức;
- Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được;
Lưu ý: Hợp đồng vô hiệu toàn phần khi hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội. Còn hợp đồng vô hiệu từng phần khi một phần của hợp đồng vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch.
1.Vô hiệu về hình thức
Hình thức hợp đồng là sự biểu hiện ra bên ngoài của nội dung của hợp đồng, gồm tổng hợp các cách thức, thủ tục, phương tiện để thể hiện và công bố ý chí của các bên, ghi nhận nội dung của hợp đồng và là biểu hiện cho sự tồn tại của hợp đồng.
Hình thức của hợp đồng không chỉ là hình thức thể hiện nội dung của hợp đồng mà còn là những thủ tục mà pháp luật quy định bắt buộc các bên giao kết hợp đồng phải tuân thủ khi giao kết một số loại hợp đồng như phải có công chứng, chứng thực,…
Vai trò của hình thức hợp đồng bao gồm:
- Các hình thức trọng thể được ấn định cho một số hành vi quan trọng, cốt để các đương sự chú trọng đặc biệt việc mình sắp làm;
- Các hình thức chứng cứ để dẫn chứng trước pháp luật (luật tố tụng trong trường hợp này chỉ chấp nhận hai cách dẫn chứng: “chứng thư hợp đồng” và “sự thú nhận của đương sự”);
- Các hình thức nhằm đảm bảo quyền định đoạt của những người chưa hoàn toàn có tư cách chủ thể độc lập để tự mình xác lập các giao dịch dân sự (ví dụ người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi khi xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản của mình);
- Các hình thức công bố trong trường hợp có liên quan đến người thứ ba.
Có hai trường hợp hợp đồng được coi là không tuân thủ về hình thức đó là:
- Hình thức văn bản không đúng quy định của pháp luật;
- Hình thức văn bản vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực.
2.Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu
- Không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập;
- Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận;
- Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả;
- Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó;
- Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. Ngoài ra, việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan quy định
III.Một số câu hỏi liên quan đến các trường hợp hợp đồng đặt cọc vô hiệu hình thức
Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức có mặc định bị vô hiệu hay không?
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Căn cứ Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015, giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:
- Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.
- Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.
Hình thức của hợp đồng được quy định như thế nào?
Hình thức của hợp đồng được hiểu là cách thức thể hiện hợp đồng để ghi nhận sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng, hình thức của hợp đồng được quy định như sau:
Căn cứ Điều 119 Bộ luật Dân sự năm 2015:
- Các bên có thể thỏa thuận về hình thức của hợp đồng bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể;
- Khi các bên thỏa thuận giao kết bằng một trong ba hình thức trên thì hợp đồng được xem xét là đã giao kết và phải tuân theo quy định về nội dung của hình thức đó.
Trong một số trường hợp cụ thể, pháp luật có quy định về việc hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản và phải được công chứng, chứng thực thì khi đó hình thức của hợp đồng bắt buộc phải tuân theo các quy định của pháp luật.